Hiển thị các bài đăng có nhãn điều trị viêm khớp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn điều trị viêm khớp. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn do vi khuẩn thường

I. ĐẠI CƯƠNG
Viêm khớp nhiễm khuẩn (VKNK) là viêm khớp do vi khuẩn có mặt trong khớp gây nên. Vi khuẩn Gram dương chiếm tỷ lệ 65-85%. Tụ cầu vàng (S. Aureus) chiếm tỷ lệ 60% trong tất cả các vi khuẩn gây bệnh. Lậu cầu là vi khuẩn phổ biến gây VKNK. Vi khuẩn Gram âm như E. Coli, trực khuẩn mủ xanh chỉ chiếm 10-20% các trường hợp. Viêm khớp nhiễm khuẩn Gram âm thường xuất hiện thứ phát sau nhiễm trùng ruột mạn tính, viêm đường mật mạn tính, nhiễm trùng tiết niệu. Trực khuẩn Gram âm còn là nguyên nhân thường gặp của VKNK ở trẻ em, các bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính, người cao tuổi và những người dùng thuốc đường tĩnh mạch. Vi khuẩn có thể đến khớp trực tiếp hay gián tiếp qua đường máu. Vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp qua các chấn thương khớp, vết thương do vật nhọn đâm vào hay do súc vật cắn, qua các thủ thuật y tế như tiêm khớp, châm cứu, chọc dò khớp, phẫu thuật khớp. Tuy nhiên phần lớn nhiễm khuẩn khớp đều là thứ phát, vi khuẩn có thể đi theo đường tĩnh mạch hay bạch mạch lan vào khớp từ những ổ nhiễm khuẩn ngoài da, viêm xương, viêm cơ. Các đối tượng có nguy cơ cao mắc VKNK là những người rất trẻ, hay tuổi cao trên 60; những người hoạt động tình dục có nguy cơ cao, hay những người vừa bị phẫu thuật hay bị chấn thương; tiền sử nhiễm khuẩn trước đó; những người mắc các bệnh khớp mạn tính (viêm khớp dạng thấp, thoái hóa khớp, gut, luput ban đỏ hệ thống, nhiễm trùng khớp giả; hút dịch khớp hay tiêm khớp nhiều lần; mắc các bệnh gây suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải; điều trị bằng các thuốc gây suy giảm miễn dịch (dùng corticoid kéo dài, thuốc ức chế miễn dịch, hóa trị liệu), bệnh hệ thống (bệnh gan mạn tính, ung thư), những người lạm dụng tiêm truyền tĩnh mạch.
Lâm sàng và xét nghiệm
Triệu chứng toàn thân: Hầu hết bệnh nhân VKNK sốt cao 39-40oC, sốt cao liên tục hay dao động. Tuy nhiên có một số trường hợp chỉ có sốt nhẹ. Ở những người dùng thuốc ức chế miễn dịch thì có thể không sốt. Rét run không thường gặp và chủ yếu ở bệnh nhân có cấy máu dương tính. Ngoài ra bệnh nhân có môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở hôi.
Biểu hiện ở khớp: Biểu hiện điển hình là viêm một khớp cấp tính có tràn dịch khớp, nóng, đỏ khớp thường kèm theo sốt. Đa số VKNK thường chỉ ở một khớp (80-90% các trường hợp nhiễm khuẩn không do lậu cầu). Các khớp hay gặp là khớp gối, háng. Ở người trưởng thành tổn thương khớp gối gặp trong hơn 50% tất cả các trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn không do lậu cầu. Ở trẻ em thì khớp háng hay bị tổn thương hơn.
Các dấu hiệu viêm sinh học: bạch cầu trong máu tăng cao, đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính. Tuy nhiên ở người cao tuổi, bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế miễn dịch... thì bạch cầu máu có thể vẫn bình thường. Đa số bệnh nhân có tăng protein C phản ứng và tăng tốc độ máu lắng.
Xét nghiệm dịch khớp: có vai trò quan trọng trong chẩn đoán. Cần chọc hút dịch ngay bất kỳ khớp nào nghi bị nhiễm khuẩn. Cần chọc hút ra càng nhiều dịch càng tốt. Lấy dịch khớp để làm xét nghiêm nhuộm Gram, nuôi cấy tìm vi khuẩn, tính số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu trong dịch khớp, xác định nồng độ glucose trong dịch khớp, đồng thời với glucose trong máu, và tìm vi tinh thể. Bình thường số lượng dịch khớp vào khoảng 1-4 ml, trong suốt, màu vàng nhạt. Khi khớp bị nhiễm khuẩn, số lượng dịch khớp tăng lên, dịch khớp có màu vàng đục, hay là dịch mủ. Tế bào dịch khớp tăng cao với số lượng trên 30.000 tế bào/ mm3 với viêm khớp do lậu cầu và >50.000 tế bào/mm3, với viêm khớp không do lậu cầu. Tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính chiếm tới hơn 80 -85%. Sự có mặt bạch cầu đa nhân trung tính thoái hóa chứng tỏ viêm khớp nhiễm khuẩn. Sự có mặt của tinh thể trong dịch khớp không loại trừ nhiễm khuẩn đồng thời. Có thể phết dịch khớp trên lam kính, sau đó nhuộm Gram và soi tìm vi khuẩn gây bệnh. Nhuộm Gram cho kết quả dương tính trong 75% cầu khuẩn gram dương, 50% với trực khuẩn Gram âm và ít hơn 25% viêm khớp do lậu cầu. Nuôi cấy dịch khớp cho kết quả dương tính trong 90% -100% các trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn không do lậu cầu nhưng chỉ 25-50% thậm chí lên tới trên 90% dương tính đối với viêm khớp do lậu cầu.
Cấy máu và các xét nghiệm khác: khoảng 50% bệnh nhân VKNK không do lậu cầu có cấy máu dương tính, thậm chí trong một số trường hợp thì cấy máu dương tính trong khi cấy dịch khớp lại âm tính. Cũng cần phải lấy bệnh phẩm ở các ổ nhiễm khuẩn ngoài khớp (nước tiểu, da) để nhuộm Gram và nuôi cấy vì chúng có thể là chìa khóa để biết các vi khuẩn gây nhiễm trùng khớp.
Xquang khớp: hẹp khe khớp, diện khớp nham nhở, không đều, bào mòn xương.
Chẩn đoán xác định viêm khớp nhiễm khuẩn
Lâm sàng
-      Hội chứng nhiễm trùng: sốt.
-      Viêm một khớp cấp tính: sưng, đau dữ dội, đỏ khớp, hạn chế vận động.
-      Cận lâm sàng
-      Hội chứng viêm sinh học: bạch cầu máu tăng, máu lắng tăng cao.
-      Xét nghiệm dịch khớp: bạch cầu tăng cao, chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính thoái hóa.
-      Nhuộm soi, nuôi cấy thấy vi khuẩn gây bệnh
II. ĐIỀU TRỊ
1. Nguyên tắc điều trị
-      Dùng kháng sinh để loại bỏ vi khuẩn gây bệnh.
-      Bảo tồn chức năng vận động của khớp
-      Điều trị bao gồm ba phương pháp chính: kháng sinh, bất động, dẫn lưu.
2. Các phương pháp điều trị cụ thể
Kháng sinh
Cần chọn loại kháng sinh phù hợp với vi khuẩn gây bệnh, dựa trên các triệu chứng lâm sàng, đường vào của vi khuẩn, kết quả của nhuộm soi, nuôi cấy và kháng sinh đồ. Tuy nhiên trong thực tế lâm sàng, người ta thường bắt đầu dùng kháng sinh càng sớm càng tốt, thậm chí trước khi có kết quả kháng sinh đồ. Nếu nghi ngờ viêm khớp nhiễm khuẩn trên lâm sàng và dịch khớp là mủ hay phát hiện vi khuẩn trên tiêu bản nhuộm Gram cần dùng kháng sinh ngay lập tức. Thường thường lựa chọn kháng sinh ban đầu theo kinh nghiệm, dựa trên phán đoán triệu chứng bệnh và đường vào của vi khuẩn. Phải dùng thuốc kháng sinh tác dụng với tụ cầu vàng. Cần dùng tối thiểu hai loại kháng sinh. Có thể dùng kháng sinh phổ rộng như cephalosporin, kết hợp với aminoglucosid. Sau đó chuyển sang kháng sinh thích hợp tuỳ theo kết quả của kháng sinh đồ. Về đường dùng, thường bắt đầu bằng kháng sinh đường tiêm trong khoảng tối thiểu 3 tuần đối với tụ cầu vàng, 7 ngày với lậu cầu và 2 tuần đối với hầu hết các nhiễm khuẩn khác (S. pyogenes, H. influenzae), sau đó chuyển sang kháng sinh đường uống trong 1-2 tuần. Tuy nhiên thời gian điều trị được xác định bằng đáp ứng của bệnh nhân. Cephalosporin thường hay được dùng khi bệnh nhân có dị ứng nhẹ với penicillin, Còn khi bệnh nhân bị dị ứng nặng với penicillin thì cần dùng vancomycin hay clindamycin. Dùng thuốc kháng sinh tiêm nội khớp không có kết quả rõ rệt. Nếu nhuộm Gram âm tính, ở trẻ em nhỏ hơn 2 tuổi, cần dùng các kháng sinh phổ rộng để điều trị các loại vi khuẩn có thể là nguyên nhân như H. influenzae kháng với penicillin, tụ cầu, trực khuẩn Gram âm. Đối với bệnh nhân suy giảm miễn dịch, người già, người lạm dụng thuốc đường tiêm truyền cần chú ý dùng kháng sinh phổ rộng để điều trị các loại vi khuẩn tụ cầu vàng kháng methicillin, trực khuẩn Gram âm.
Điều trị tuỳ theo vi khuẩn gây bệnh
-      Viêm khớp do tụ cầu
Hiện nay gặp nhiều khó khăn do vi khuẩn kháng thuốc. Đối với tụ cầu nhậy cảm với methicillin: dùng oxacillin hoặc cephalosporin thế hệ 1 phối hợp với aminoglycosid hay quinolon. Còn với chủng tụ cầu kháng methicillin thì nên dùng vancomycin kết hợp với aminoglycosid hay quinolon kết hợp với aminoglycosid.
-      Viêm khớp do liên cầu
Điều trị bằng amino-penicillin hay cephalosporin thế hệ ba. Có thể dùng fluoroquinolon kết hợp với aminoglycosid đối với liên cầu nhóm D.
-      Viêm khớp do vi khuẩn Gram âm
Nếu phát hiện cầu khuẩn Gram âm thì cần dùng ceftriaxon. Nếu phát hiện trực khuẩn Gram âm, cần sử dụng aminoglycosid kết hợp với một trong các loại kháng sinh loại beta lactam hay cephalosporin thế hệ ba hoặc fluoroquinolon.
-      Viêm khớp do trực khuẩn mủ xanh
Dùng cephalosporin thế hệ ba (Ceftazidin) kết hợp với aminoglycosid (amikacin) hay axepim.
Bất động
Ở giai đoạn cấp tính, viêm mủ khớp, bệnh nhân thường tư thế gấp nhẹ hay trung bình, có thể dẫn đến biến dạng gấp khớp sau này. Cần giữ khớp viêm bất động ở tư thế cơ năng bằng dây đeo, thanh nẹp hay bó bột. Cần có dụng cụ kéo đối với khớp háng. Tuy nhiên ngay cả ở giai đoạn này vẫn cần phải luyện tập căng cơ ví dụ cơ tứ đầu đùi trên bệnh nhân viêm mủ khớp gối để phòng biến chứng teo cơ. Khi khớp đã đỡ viêm thì cần vận động khớp thụ động và chủ động sớm để tránh dính khớp và teo cơ.
Dẫn lưu
Cần dẫn lưu tất cả dịch mủ bằng chọc hút bằng kim, qua nội soi hay qua phẫu thuật mở khớp. Hầu hết các khớp đều có thể chọc hút dịch khớp. Hiện nay chọc hút dịch qua nội soi là một phương pháp lựa chọn, còn dẫn lưu phẫu thuật chỉ nên chỉ định khi cả hai phương pháp chọc hút bằng kim và qua nội soi thất bại.
-      Chọc hút dịch khớp. Nên chọc tháo dịch khớp đều đặn, đầu tiên một ngày một lần, sau đó 2 ngày một lần. Ngày nay người ta có thể dùng nội soi để dẫn lưu, rửa khớp, làm tăng hiệu quả chữa bệnh.
-      Dẫn lưu khớp ngoại khoa. Có chỉ định khi chọc dò không hiệu quả hay có cốt tuỷ viêm kèm theo đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật. Nên phẫu thuật dẫn lưu sớm khớp háng vì khớp này khó chọc dò, đặc biệt ở trẻ em. Ngoài ra cũng cần chú ý đến phẫu thuật chọc dò khớp vai bị nhiễm khuẩn.

Ngoài ra trong trường hợp nhiễm trùng khớp giả thì phải phẫu thuật loại bỏ khớp giả hay thay khớp mới. Trường hợp khớp bị huỷ hoại nặng nề có khi phải gây cứng khớp ở tư thế cơ năng.